Lịch sử Cục_Điều_tra_Liên_bang

Khởi điểm

Năm 1886, Tòa án Tối cao nhận thấy rằng liên bang không hề có đủ thẩm quyền điều chỉnh một số vấn đề xảy ra ở cùng lúc nhiều tiểu bang, dẫn đến Đạo luật Thương mại Liên bang ra đời năm 1887 nhằm tạo ra một cơ quan thực thi pháp luật có đủ thẩm quyền trong việc giải quyết các vụ việc mang tính chất cấp Liên bang. Tuy nhiên Bộ Tư pháp lại tỏ ra chậm chạp trong việc phân phối nguồn nhân lực cho Cục, dẫn đến Tổng Chưởng lý Charles Joseph Bonaparte phải nhờ đến các cơ quan khác, có cả Cơ quan Mật vụ để hỗ trợ điều tra. Tuy nhiên, Quốc hội đã thông qua bộ luật nghiêm cấm Bộ Tư pháp sử dụng nhân lực từ Bộ Ngân khố, do đó Tổng Chưởng lý phải tổ chức và thành lập Cục Điều tra một cách hoàn chỉnh với nhân sự là các đặc vụ riêng của Cục. Cơ quan Mật vụ đã hỗ trợ Bộ Tư pháp 12 đặc vụ và những đặc vụ này đã trở thành những đặc vụ đầu tiên của Cục Điều tra mới thành lập. Những đặc vụ đầu tiên của FBI hóa ra lại là những đặc vụ của Cơ quan Mật vụ, từ đó Cục chính thức có đầy đủ thẩm quyền theo Đạo luật Thương mại Liên bang năm 1887.[2][3] FBI phát triển rất mạnh với một lượng đặc vụ rất dày đặc vào tháng 7 năm 1908 trong thời kì của Tổng thống Theodore Roosevelt, nhiệm vụ chính thức đầu tiên của Cục là thâm nhập và khảo sát về các nhà chứa để chuẩn bị thực thi pháp luật theo Đạo luật ‘’Buôn bán nô lệ da trắng’’ hay còn gọi là ‘’Đạo luật Mann’’ được ban hành vào 25 tháng 6 năm 1910. Năm 1932, Cục đổi tên là Cục Điều tra Hoa Kỳ. Năm sau đó, Cục kết hợp với Cục Kiểm soát Rượu và chất có cồn và được đặt tên lại là Đơn vị Điều tra trước khi tách ra và trở thành một Cục hoàn chỉnh trực thuộc Bộ Tư pháp vào năm 1935.[2] Trong cùng năm đó, Cục chính thức đổi tên Đơn vị Điều tra thành Cục Điều tra Liên bang và được sử dụng cho đến ngày nay, viết tắt là FBI.

Thời kì của J. Edgar Hoover

Giám đốc của Cục Điều tra J. Edgar Hoover trở thành giám đốc đầu tiên của Cục mới thành lập là Cục Điều tra Liên bang, nếu tính luôn thời gian lãnh đạo từ khi Cục là Cục Điều tra, rồi sang Đơn vị Điều tra và Cục Điều tra Liên bang, ông đã phục vụ 48 năm. Sau cái chết của Hoover, luật đã giới hạn lại thời gian nắm quyền của các giám đốc về sau chỉ tối đa 10 năm. Hoover có nhiều ảnh hưởng đáng kể trong hầu hết mọi kế hoạch và công việc của FBI trong nhiệm kì của mình, Phòng Thí nghiệm Khoa học Điều tra Tội phạm hay còn gọi là Phòng Thí nghiệm FBI ra đời năm 1932, ý tưởng chủ yếu là của Hoover.

Trong thời kì ‘’Chiến tranh với tội phạm’’ trong thập niên 1930, các đặc vụ FBI đã bắt giữ hoặc giết chết rất nhiều tội phạm nguy hiểm mang trên mình các bản án về tội bắt cóc, trộm cướp và giết người trên toàn quốc, như John Dillinger, ‘’Baby Face’’ Nelson, Kate ‘’Ma’’ Baker, Alvin ‘’Creepy’’ Karpis và George ‘’Machine Gun’’ Kelly.

Ngoài ra, Cục còn có nhiệm vụ quan trọng khác là làm giảm phạm vi và ảnh hưởng của nhóm Ku Klux Klan. Thêm vào đó, nhờ vào Edwin Atherton, FBI đã thành công trong việc bắt giữ được cả đội quân khởi nghĩa tân Mexico dọc biên giới California trong thập niên năm 1920.

FBI và An ninh Quốc gia

Bắt đầu vào thập niên năm 1940 và tiếp tục vào thập niên 1970, Cục tiến hành điều tra các hoạt động gián điệp chống lại nước Mỹ và đồng minh. Cục đã bắt được 8 điệp viên theo Phát xít đang lên kế hoạch phá hoại nước Mỹ và xử tử 6 trong số 8 tên. Trong thời gian này, một liên minh giữa Hoa Kỳ và Anh quốc nỗ lực phá mã ‘’Venona’’(mã liên lạc tình báo và ngoại giao của Liên Xô) – mà FBI là cơ quan chủ đạo – đã hỗ trợ nhà cầm quyền đọc được thông tin liên lạc của Liên Xô. Nhờ những nỗ lực trên mà họ có thể xác định được có những người Mỹ làm việc cho tình báo Liên Xô.[4] Hoover là người chỉ đạo trực tiếp chiến dịch này nhưng đã không thông báo cho Cơ quan Tình báo Trung ương (CIA) mãi cho đến năm 1952. Điểm nổi bật trong sự việc này là vụ bắt giữ Rudolf Abel năm 1957.[5] Việc phát hiện ra điệp viên Xô Viết tại Hoa Kỳ đã thôi thúc nỗi ám ảnh từ lâu của Hoover về mối hiểm họa tiềm tàng mà ông nhận thấy được từ những Người Mỹ bị bỏ rơi, xuất xứ từ công đoàn của Đảng Cộng sản Hoa Kỳ cho đến những người thuộc phe Tự do.

FBI và hoạt động nhân quyền

Trong suốt thập niên 1950 và 1960, các quan chức FBI bắt đầu quan tâm nhiều đến sự ảnh hưởng của các lãnh tụ dân quyền. Đơn cử, năm 1956, Hoover đã làm một việc rất hiếm khi làm là gửi một bức thư mở tố cáo Bác sĩ T.R.M Howard, một lãnh tụ dân quyền, bác sĩ và là một nhà buôn phát đạt ở Mississippi, người đã chỉ trích sự vô trách nhiệm của FBI trong vụ giải quyết án mạng của George W. Lee, Emmett Till và những người da đen khác tại miền Nam.[6] FBI đã thực hiện một chương trình giám sát nội địa gây nhiều tranh luận mang tên ‘’COINTELPRO’’ nghĩa là Chương trình Phòng chống Tình báo.[7] Chương trình tập trung điều tra các tổ chức chính trị bạo động bên trong nước Mỹ, bao gồm các tổ chức bất bạo động, tổ chức vũ trang và Liên đoàn Lãnh đạo Cơ đốc miền Nam.[8]

Martin Luther King, Jr. từng là một mục tiêu thường xuyên bị điều tra. Theo lời của Carl Rowan, phóng viên tờ The Washington Post quả quyết rằng FBI đã gửi ít nhất một lá thư nặc danh kêu gọi King nên tự sát.[9]

Tháng 3 năm 1971, một cơ quan địa phương của FBI tại Media, Pennsylvania bị trộm, kẻ trộm đã lấy đi nhiều tài liệu mật và gửi chúng cho một loạt các tuần báo trong đó có tờ Harvard Crimson.[10] Trong số các tài liệu bị mất, có bản chi tiết chương trình ‘’COINTELPRO’’, với rất nhiều cuộc điều tra về những công dân bình thường – bao gồm một nhóm các sinh viên da đen tại trường đại học quân sự và con gái của Đại biểu Quốc hội Henry Reuss của Wisconsin.[10] Cả đất nước ‘’choáng váng’’ với những sự thật được phơi bày, nhiều Đại biểu Quốc hội bao gồm cả lãnh đạo đa số ở Hạ viện Hale Boggs đã tố cáo các hành động này của FBI,[10] khi họ chứng minh được điện thoại của Boggs và một số đại biểu khác bị ghi âm lén.[10]

FBI và vụ ám sát Kennedy

Giám đốc FBI J. Edgar Hoover.

Khi Tổng thống John F. Kennedy bị bắn chết, quyền điều tra được trao cho các phòng cảnh sát địa phương cho đến khi Tổng thống Lyndon B. Johnson chỉ định FBI trực tiếp vào việc.[11] Việc làm này là để đảm bảo sự trật tự trong thứ bậc giải quyết án mạng ở cấp độ liên bang, Quốc hội đã tán thành khi thông qua dự luật giao quyền cho FBI tiếp quản điều tra về cái chết của các quan chức cấp liên bang.

FBI và tội phạm có tổ chức

Nhằm đối phó với tội phạm có tổ chức, vào tháng 8 năm 1953, FBI đã tạo ra chương trình ‘’Top Hoodlum’’, chương trình đòi hỏi các cơ quan đại diện thu thập thông tin về các băng Đảng và địa bàn hoạt động của chúng rồi báo cáo thường xuyên về cho Washington để tổng hợp thông tin tình báo.[12] Sau khi Quốc hội thông qua đạo luật Tệ tham nhũng và ảnh hưởng của các băng Đảng, viết tắt là RICO, FBI bắt đầu điều tra các nhóm buôn lậu rượu có tổ chức vốn thực hiện nhiều tội ác ở các thành phố chính và cả những thị trấn nhỏ. Tất cả mọi việc đều được FBI thực hiện bí mật và sử dụng nội gián bên trong các tổ chức này để tiêu diệt chúng. Mặc dù Hoover phủ nhận sự tồn tại của Nghiệp đoàn Tội phạm Quốc gia ở nước Mỹ, nhưng Cục đã thực hiện nhiều chiến dịch để chống lại các nghiệp đoàn và gia đình tội phạm, như Sam Giancana và John Gotti. Đạo luật RICO vẫn còn hiệu lực cho đến ngày nay để kiếm soát tội phạm có tổ chức và các cá nhân liên quan.

Tuy nhiên, vào năm 2003, một Ủy ban thuộc Quốc hội đã gọi chương trình nội gián chống tội phạm có tổ chức là một trong những sự thất bại nhất trong lịch sử của cơ quan thực thi pháp luật liên bang khi FBI kết án 4 người vô tội, 3 trong số đó bị kết án tử (sau đó giảm xuống chung thân). Bị can thứ tư bị kết án chung thân trong tù mà anh ta thi hành án ba thập kỷ.[13] Vào tháng 7 năm 2007, thẩm phán quận Nancy Gertner đã cho thấy bằng chứng Cục đã cố tình kết tội 4 người trong vụ thanh toán xã hội đen giết chết Edward ‘’Teddy’’ Deegan tháng 3 năm 1965. Chính phủ Hoa Kỳ đã phải bồi thường cho 4 bị can số tiền là 100 triệu$.[14]

Những đợt tái cơ cấu nổi bật thời Hoover

Đội đặc nhiệm FBI

Năm 1984, FBI thành lập một đội đặc nhiệm[15] để hỗ trợ các vấn đề mới phát sinh tại Thế vận hội mùa hè năm 1984, đặc biệt là tội phạm khủng bố và trọng án. Việc thành lập đội trở nên cấp thiết hơn sau vụ Thế vận hội mùa hè năm 1972 tại Munich, Đức khi những kẻ khủng bố giết chết các vận động viên Israel. Đội được đặt tên là ‘’Đội Giải cứu con tin’’ và thực hiện nhiệm vụ giống đội Cơ động Quốc gia nhằm giải quyết các vấn đề nghiêm trọng và vụ việc liên quan đến khủng bố. Song song, ‘"Đội Phân tích và Phản ứng Tội phạm Công nghệ cao’’ (CART) được thành lập năm 1984.[16] Cuối thập niên năm 1980, đầu thập niêm 1990, Cục có nhiều sự thuyên chuyển công tác cho các đặc vụ với hơn 300 người có nhiệm vụ từ chống tình báo nước ngoài cho đến trọng tội đều chuyển về trọng tội vì nhiệm vụ này đã được nâng lên hàng thứ 6 trong bảng ưu tiên quốc gia. Cùng với việc cắt giảm ngân sách cho đến thiết lập nhiều phòng ban mới, chống khủng bố không còn là công việc cấp thiết nữa sau Chiến tranh Lạnh,[16] FBI trở thành công cụ hỗ trợ cảnh sát địa phương truy bắt các phạm nhân bỏ trốn trên phạm vi liên bang. Phòng thí nghiệm FBI hỗ trợ phát triển công nghệ thử ADN, công việc này tiếp tục phát triển và hỗ trợ đắc lực cho việc nhận dạng thay thế cho hệ thống nhận dạng vân tay vốn có từ lâu đời (từ năm 1924).

Những thành công đáng kể trong thập niên 1990

Giữa năm 1993 và 1996, FBI tập trung vào vai trò chống khủng bố khi làn sóng đánh bom đầu tiên bắt đầu sau sự kiện Trung tâm Thương mại Thế giới năm 1993 ở Thành phố New York và Thành phố Oklahoma năm 1995 và vụ bắt giữ Theodore Kaczynski năm 1996. Sự tiến bộ công nghệ và kỹ năng cao của các chuyên gia phân tích FBI đã giúp FBI đủ bằng chứng truy tố cả ba vụ việc, tuy nhiên FBI vẫn phải trải qua sự phản đối kịch liệt trong quần chúng, điều vẫn ám ảnh Cục cho đến ngày nay.[17] Vào đầu và cuối thập niên năm 1990, FBI nhận trách nhiệm chính trong hai sự kiện Ruby Ridge và Waco Siege dẫn đến sự chết chóc gây náo động. Trong suốt Thế vận hội mùa hè năm 1996 tại Atlanta, Georgia, FBI bị chỉ trích trong việc điều tra vụ đánh bom Công viên Centennial Olympic. Vụ việc dấy lên một cuộc tranh luận giữa Richard Jewell, nhân viên an ninh tư nhân tại phòng xử án với một số tổ chức truyền thông,[18] khi để lộ tên ông trong quá trình điều tra. FBI đã tiếp nhận và thiết lập việc nâng cấp công nghệ năm 1998 sau khi Quốc hội thông qua đạo luật ‘’Hỗ trợ Thông tin cho việc thực thi pháp luật’’ (CALEA, 1994), đạo luật ‘’Trách nhiệm giải trình và Bảo hiểm Sức khỏe linh động’’ (HIPAA, 1996) và đạo luật ‘’Gián điệp kinh tế’’ (EEA, 1996). Để đối phó với diễn biến phức tạp trong công nghệ thông tin như vi rút, sâu và những chương trình gây hại khác trên máy tính có thể gây sự tàn phá nghiêm trọng ở Hoa Kỳ, FBI đã thiết lập Trung tâm Đánh giá Mối đe dọa cho Cơ sở hạ tầng và Điều tra Công nghệ thông tin (CITAC) và Trung tâm Bảo vệ Cơ sở hạ tầng Quốc gia (NIPC). Với sự phát triển đi lên của hệ thống viễn thông cũng dấy lên nhiều vấn đề phát sinh, FBI tăng sự hiện diện điều tra của mình trong việc giám sát an ninh quốc gia và an toàn công cộng.

Vụ khủng bố 11 tháng 9

Tân Giám đốc FBI Robert Mueller, người nhận nhiệm sở chỉ một tuần trước vụ khủng bố, đã kêu tái tổ hợp là cấu trúc và hoạt động của FBI. Ông đã đặt tất cả các tội liên bang lên hàng ưu tiên, bao gồm chống khủng bố, ngăn chặn tình báo nước ngoài, chú tâm vào các mối đe dọa an ninh mạng, tội phạm công nghệ cao khác, bảo vệ dân quyền, tuyên chiến với tham nhũng công, tội phạm có tổ chức, tội phạm ‘’cổ trắng’’ và các trọng tội liên quan đến bạo lực khác.[19]

18.2.2001 Robert Hanssen bị bắt giữ khi đang bán tài liệu mật cho chính phủ Nga. Thông tin sau đó cho biết Hanssen là nhân viên cao cấp của FBI bán thông tin tình báo từ đầu 1979 cho đến nay. Ông bị kết tội phản bội và bị kết án tù chung thân vào năm 2002, vụ việc cho thấy vẫn còn nhiều kẽ hở bên trong nhân sự của FBI. Có tin đồn cho biết Hanssen đã cung cấp thông tin dẫn đến vụ khủng bố 11 tháng 9.[20]

Ủy ban 11 tháng 9 đã ra thông cáo vào ngày 22 tháng 7 năm 2004 tuyên bố rằng FBI và Cơ quan Tình báo Trung ương (CIA) đã không tham khảo thông tin tình báo về sự kiện có thể dẫn đến vụ khủng bố 11 tháng 9 năm 2001. Bản báo cáo cũng chỉ trích rất nhiều về Cục khi Cục đã không hoàn thành đúng nhiệm vụ được giao và yêu cầu phải có sự thay đổi bên trong FBI.[21] Trong khi FBI đã tán thành với hầu hết các ý kiến đề nghị, bao gồm cả việc Giám đốc Tình báo Quốc gia sẽ giám sát Cục, thì một số thành viên của Ủy ban 11/9 vẫn công khai chỉ trích FBI vào tháng 10 năm 2005 khi Cục chỉ thay đổi cho có hình thức mà không có tính căng cơ.[22]

Tháng 7 năm 2007, tờ ‘’Washington Post’’ xuất bản đoạn trích từ sách của Giáo sư Amy Zegart thuộc Đại học Los Angeles-California mang tựa đề Spying Blind: The CIA, the FBI, and the Origins of 9/11.[23] Tựa báo nêu tin rằng các tài liệu cho thấy CIA và FBI đã làm lỡ mất 23 cơ hội để phá vỡ âm mưu khủng bố 11 tháng 9. Lý do chủ yếu trong vụ việc này bao gồm: ý tưởng mới và văn hóa chống sự thay đổi trong Cục, việc đề bạt không thích hợp và sự tính thiếu hợp tác giữa hai cơ quan CIA và FBI với các cơ quan khác trong Cộng đồng Tình báo Hoa Kỳ. Bài báo cũng chỉ trích tính tập trung hóa của FBI dẫn đến sự thiếu hiệu quả trong liên lạc và hợp tác giữa các văn phòng FBI khác nhau. Fbi đã không phát triển hiệu quả của các cơ quan chống khủng bố và gián điệp nước ngoài do sự cổ hữu trong việc cách tân FBI. Ví dụ như FBI luôn đối xử bất công giữa các đặc vụ với các nhân viên còn lại, phân biệt hóa giữa các chuyên viên phân tích với nhân viên thợ máy và lao công.[24]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Cục_Điều_tra_Liên_bang http://www.abc.net.au/am/content/2004/s1160100.htm http://www.boston.com/news/local/massachusetts/art... http://www.cbsnews.com/stories/2005/10/06/60minute... http://www.cbsnews.com/stories/2007/11/16/60minute... http://www.fcw.com/article89707-07-27-05-Web http://archive.newsmax.com/archives/articles/2007/... http://www.nytimes.com/2007/04/15/magazine/15wwlnl... http://www.sfgate.com/cgi-bin/article.cgi?f=/c/a/2... http://www.straightdope.com/columns/030502.html http://projects.washingtonpost.com/top-secret-amer...